eng
competition

Text Practice Mode

Nguyễn Công Trứ

created Jul 13th, 08:07 by


1


Rating

1927 words
3 completed
00:00
Bỏ vợ lẽ cảm tác
Mười hai bến nước, một con thuyền
Tình tự xa xôi, đố vẽ nên!
Tự biệt nhiều lời so vắn giấy  
Tương nặng gánh chứa đầy thuyền
Rồi đây nỏ biết quên hay nhớ
Từ đó mang nợ với duyên
Tình ấy trăng kia như biết với
Chia làm hai nửa giọi hai bên!
  
Bỡn đào già
Liếc trông giá đáng mấy mười mươi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Giăng xế nhưng cung chửa khuyết
Hoa tàn song lại nhị còn tươi
Chia đôi duyên nọ đà hơn một
nét xuân kia vẹn cả mười
chút tình duyên nên đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi
đào Hiệu Thư, người tác giả đã bồng bột tỏ tình giữa cánh đồng khi xưa. Khi thành Tổng đốc Hải An mời đào nương đến hát lễ sinh nhật, bất ngờ hai người gặp lại nhau. Ông cưới Hiệu Thư làm thiếp vẫn còn “mê” nàng.
  
Bỡn tình nhân
Tao nhà tao tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước ra đi.
Không đi mi nói răng không đến,
Đến thì mi nói đến làm chi.
Làm chi tao đã làm chi được,
Làm được tao làm đã lắm khi.
Câu cuối bản chép “Làm được thì tao đã làm đi”.
  
Cách đời (Cách ăn đời)
Ăn sao cho trải sự đời,
Vừa lòng cũng khó, rằng chơi?
Nghe như chọc ruột, tai làm điếc,
Giận đã căm gan, miệng mỉm cười.
Bởi số chạy đâu  cho khỏi số?
Luỵ người nên nỗi phải chiều người.
Mặc ai, chớ để điều ân oán,
Chung cục thời chi  cũng tại trời.
Tiêu đề bản chép Cách ăn đời.
  
Cảm tác lúc về già
Kẻ ghét song còn kẻ ưa,
Nghĩ đâu lựa được cho vừa.
Khó giàu đã định thời không oán,
Khôn dại đành hay dám từ.
Bể học nguồn cho chúng trẻ,
Ngày nhàn vui chuyện với người xưa.
Lâng lâng rạch niềm nhân, ngã,  
Gẫm thú phồn hoa đáng thế chưa.
  
Cảnh xa nhà
Nỗi nọ đường kia, xiết nói năng!
Đêm nằm không ngủ, biết mần răng?
Đầu ngành mấy tiếng chim kêu gió
Trước điếm năm canh chó sủa giăng
Phảng phất lòng quê khôn nén được
màng cuộc thế cũng cầm bằng
Đêm eo óc, trời chưa rạng
Tình tự này ai biết hay chăng?
  
Cầm kỳ thi tửu bài 1 (Tự cao)
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi
Dở duyên với rượu khôn từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
Cờ sẵn bàn son xe ngựa đó
Đàn còn phím trúc tính tình đây
Ai say, ai tỉnh, ai thua được
Ta mặc ta ai mặc ai!
Sách Văn đàn bảo giám chép tiêu đề Tự cao.
  
Câu đối làm hộ vợ tiễn mình đi thi
Nhờ giời phù hộ chồng tôi, miếng khoa giáp ăn xanh phường tử;
Ơn chúa yêu bố nó, nợ trần hoàn trang trắng mặt nam nhi.
  
Câu đối Tết: Bầu một chiếc - Nhà hai gian
Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái;
Nhà ba gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.
  
Câu đối Tết: Chiều ba mươi - Sáng mồng một
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa;
Sáng mồng một, rượu say tuý lý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
  
Câu đối Tết: Nợ chết ai đâu - Giời để sống lâu mãi
Nợ chết ai đâu, đòi chi, giả chi, cha tết;
Giời để sống lâu mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ đời.
  
Câu đối than thân: Tiền bạc của giời chung - Công danh đường đất rộng
Tiền bạc của giời chung, trống trải thế mới lọt vòng khuyên sáo ;
Công danh đường đất rộng, kèn cựa chi cho thẹn chí tang bồng .
  
Câu đối tự thuật: Anh em ơi - Trời đất nhé
Anh em ơi, ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông tây năm bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác;
Trời đất nhé, gắng một phen này nữa, xếp cung kiếm cầm thư vào một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh.
  
Cây cau
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao
Một ngày càng một rấn lên cao
Lưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?
Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vào
Buồng chất cháu con khôn xiết kể
Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào
Kình thiên một cột giơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.
  
Dại khôn
Trời đất đâu mãi rứa ru?
Xin tha nhau với chớ trêu nhau.
Bể đào xông xổ dầu tăm cá,
Mặt nước mông mênh mặc sức bèo.
Đã gớm hôi tay chù chẳng bắt,
Mấy trò liếm mặt chó không trêu.
Quản bao miệng thế lời khôn dại,
Dại trước khôn thời để lại sau.
Bài thơ do Viết Lượng sao lục, đăng trên Nam Phong tạp chí số 91, không tựa đề. Tựa đề đây tạm đặt.
  
Đánh tổ tôm
Tổ tôm tên chữ gọi sào  
Đánh thì không thấp cũng không cao
Được thì cả, thua thì chạy
Nào!
  
Đi thi tự vịnh
Đi không, lẽ trở về không?
Cái nợ cầm thư phải trả xong!
Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt
Trót đem thân thế hẹn tang bồng  
Đã mang tiếng trong trời đất
Phải danh với núi sông
Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?
Rồi ra mới mặt anh hùng
Sách Văn đàn bảo giám chép tiêu đề Đi thi.
  
Đời người thấm thoắt
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi  
Vạn sáu  tiêu nhăng đã hết rồi!
Nhắn con tạo hoá xoay thời lại,
Để khách tang bồng rộng đất chơi.
  
Đùa quan đại thần
Lênh đênh một chiếc thuyền nan,
Một thiếu nữ một quan đại thần.
Ban ngày quan lớn như thân,
Ban đêm quan lớn tần mần như ma.
Ban ngày quan lớn như cha,
Ban đêm quan lớn rầy như con.
  
Hàn nho phong vị phú
Chém cha cái khó!
Chém cha cái khó!
Khôn khéo mấy ai?
Xấu xa một nó!
Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,
Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.
Kìa ai:
Bốn vách tường mo,
Ba gian nhà cỏ.
Đầu kèo mọt đục vẽ sao,
Trước cửa nhện giăng màn gió.
Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,
Ống nứa đựng đầu đầu đỗ.
Đầu giường tre, mối dũi quanh co,
Góc tường đất, giun đùn lố nhố.
Bóng nắng dọi trứng bên vách, thằng tri trô,
Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.
Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,
Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.
Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,
Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.
Ấm trà góp bàng vối, pha mùi chát chát chua chua,
Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.
Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,
Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.
Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,
Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.
Miếng ăn sẵn non mướp luộc, ngon khéo ngon,
Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.
Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,
Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.
Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,
Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.
Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,
Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.
Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,
Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.
Tiêu dụng lấy chi phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,
Mùa màng dành để bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,
Mỏng lưng xem cũng không giầu,
Nhiều miệng lấy chi cho đủ.
Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,
Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.
Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,
Thầy mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.
Quẻ hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bèn,
Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.
Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng lời,
Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.
Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,
Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.
Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?
Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.
Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,
Dần nọ nọ kia kia, những vuốt râu làm bộ.
Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,
Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.
Láng giềng ít kẻ tới nhà,
Thân thích chẳng ai nhìn họ.
Mất việc toan dở nghề tắc, tủi con nhà hổ mặt anh em,
Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.
Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,
Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.
Tất do thiên, âu phận ấy thường,
Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.
Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,
Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.
Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc Hoài âm,
Chốn trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.
Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng khi ngựa cưỡi che,
Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng hội tường xiêu ngói đổ.
Mới biết:
Khó bởi tại trời,
Giàu cái số.
Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,
Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.
  
Hoạ bài “Than nghề” của Đình Trai
Tám vạn nghìn thứ ngỗng nghề,
Thứ nghề áo thứ nghề nghê!
Mày râu ngắm lại lòng thêm hổ,
Thư kiếm sao đành dạ bỏ bê.
Xanh đỏ giẻ cùi  khoe tốt mã,
Phong lưu khỉ gió hót đầy sề.
Xin đừng giở thói văn chương nữa,
Bán chó sao ngoài lại thủ dê?

saving score / loading statistics ...