eng
competition

Text Practice Mode

Tư duy nhanh và chậm-1-1-

created Jul 17th 2023, 05:22 by TrngHin2


2


Rating

1964 words
5 completed
00:00
- Giáo y khoa, Viện nghiên cứu y khoa Đại học New South Wales, Sydney, Australia.
Bạn đọc đang cầm trên tay một cuốn sách hay. Hay từ nội dung, hàm lượng thông tin học thuật, đến văn phong. Nếu một tác phẩm nào giúp cho chúng ta bạn tôi hiểu hơn về chính mình, thì đây một tác phẩm như thế. Bằng một văn phong đơn giản, trong sáng khi dỏm, Giáo Daniel Kahneman dẫn dắt bạn qua hàng loạt thí nghiệm tâm hội ông đồng nghiệp đã thực hiện trong suốt bốn thập niên qua. Kết quả của những thí nghiệm được đúc kết trong quyển sách này. Những kết quả thí nghiệm đó sẽ thách thức suy nghĩ của bạn, đồng thời cung cấp những kiến thức uyên bác để bạn thể hiểu về hành vi của mình của những người xung quanh. Cái hay của quyển sách không chỉ hàm lượng tri thức học thuật còn mang tính giải trí. Đọc đến chương cuối cùng gấp quyển sách lại, bạn đọc sẽ cảm thấy tiếc nuối rằng tại sao mình không biết những thông tin này sớm hơn!
Nói đến sách không đề cập đến tác giả một thiếu sót lớn. Tác giả Daniel Kahneman giáo tâm học thuộc Đại học Princeton. Ông được xem một nhà tâm học đại nhất trên thế giới còn sống. Ông người gốc Do Thái, tốt nghiệp tâm học từ Đại học Jerusalem (1954), phục vụ trong quân đội Do Thái như một chuyên gia tâm lý. Năm 1958 ông sang Mỹ học tốt nghiệp tiến tâm học Đại học California, Berkeley (1958). Cùng với người đồng nghiệp thân thiết Giáo Amos Tversky (Đại học Stanford), ông đã thực hiện hàng loạt thí nghiệm tâm nhiều phát hiện rất quan trọng về hành vi con người. Nhờ những công trình đột phá đó, năm 2002, ông được trao giải thưởng Nobel về kinh tế những phát kiến về thuyết viễn cảnh (Prospect Theory). Giáo Tversky không may mắn qua đời vào năm 1996, nên không “duyên” với giải Nobel đáng lẽ ra ông đã cùng Kahneman chia sẻ. thể nói không ngoa rằng cuốn sách bạn đang cầm trên tay một đúc kết những nghiên cứu đẳng cấp Nobel.
Người viết bài này “làm quen” với những công trình nghiên cứu của Kahneman Tversky từ đầu thập niên 2000. Lúc đó, tôi mới bắt đầu một dự án nghiên cứu về nguy gãy xương theo nguyên nhân hoá điều trị (personalized medicine). Vấn đề được đặt ra truyền đạt thông tin về nguy đến bệnh nhân như thế nào để hiệu quả nhất, tại sao nhiều thuốc điều trị loãng xương rất hiệu quả an toàn, nhưng bệnh nhân không chịu dùng thuốc. Những thí nghiệm cực kỳ sáng tạo thú của Kahneman Tversky đã soi sáng cung cấp cho tôi rất nhiều câu trả lời. Đọc những Kahneman viết, tôi thấy hình như ông biết rất nhiều về tôi! Do đó, khi cuốn sách được ấn hành, tôi đã viết bài điểm sách trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn vào tháng 11 năm 2012, nay tôi rất hân hạnh giới thiệu cuốn sách này đến bạn đọc. Cuốn sách tựa đề duy nhanh chậm (Thinking, fast and slow). Tuy sách dành cho đại chúng, nhưng trong đó tác giả thuật lại những nghiên cứu tâm hội học được thiết kế một cách thông minh kết quả làm cho bạn phải suy nghĩ lại chính mình. Chẳng hạn như chúng ta vẫn tưởng rằng con người vốn đầy trí, quyết định suy tính cẩn thận, nhưng Daniel Kahneman Amos Tversky đã chứng minh trong cuộc sống hàng ngày cả đời sống kinh tế, chúng ta thường quyết định một cách thiếu nhất quán, cảm tính, chủ quan. Kahneman chứng minh rằng chúng ta tệ hơn những chúng ta tưởng: đó chúng ta không biết những chúng ta không biết!
Trong tác phẩm duy nhanh chậm, Kahneman tả hai cách thức (hay nói đúng hơn hai hệ thống) não chúng ta vận hành. Ông gọi đó Hệ thống 1 Hệ thống 2. Hệ thống 1, còn gọi chế nghĩ nhanh, tự động, thường xuyên được sử dụng, cảm tính, rập khuôn, tiềm thức. Hệ thống 2, còn gọi chế nghĩ chậm, đòi hỏi nỗ lực, ít được sử dụng, dùng logic, tính toán, ý thức. Trong một loạt thí nghiệm tâm lý, Kahneman Tversky chứng minh rằng con người chúng ta thường đi đến quyết định theo chế nghĩ nhanh hơn nghĩ chậm. Phần lớn nội dung của cuốn sách để chỉ ra những sai lầm trong hệ thống 1. Suy nghĩ nhanh, theo cách nói von của người Việt chúng ta, trông mặt bắt hình dong. Tức một chế suy nghĩ dựa vào những tín hiệu khởi, thay tính toán cẩn thận suy đoán dựa vào logic. thể liên tưởng về chế nghĩ nhanh qua vài dụ cụ thể. Khi lái xe gắn máy đến một ngã tư, chúng ta khi chỉ cần nhìn vào ánh mắt người lái xe đối diện để quyết định băng qua đường hay không. Hoặc trước thông tin rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư vùng nông thôn cao hơn vùng thành thị, chúng ta thể nghĩ ngay rằng dịch vụ y tế vùng nông thôn kém hơn vùng thành thị. Nhưng nếu thông tin cho rằng tỷ lệ mắc bệnh ung thư vùng nông thôn thấp hơn vùng thành thị, lẽ chúng ta nghĩ rằng dân nông thôn không sống trong môi trường ô nhiễm như dân thành thị, nên dân nông thôn nguy ung thư thấp hơn thành thị. Việc người dân di tản khỏi khu vực Sông Tranh II lẽ một quyết định theo chế nghĩ nhanh. Chính chế suy nghĩ nhanh này giúp cho con người tồn tại qua hàng triệu năm, trong thực tế cũng sai lầm rất nhiều.
Những sai lầm trong chế 1 được “chứng minh” qua hàng loạt thí nghiệm rất nổi tiếng. lẽ thí nghiệm nổi tiếng nhất Vấn đề Linda. Trong thí nghiệm này, các đối tượng tham gia nghiên cứu được cung cấp thông tin về một phụ nữ (hư cấu) tên Linda, 31 tuổi, độc thân, tính tình thẳng thắn, rất thông minh, thời còn sinh viên triết đại học thường hay quan tâm đến những vấn đề kỳ thị chủng tộc bất bình đẳng hội. Những người tham gia nghiên cứu được hỏi rằng Linda là: (a) một nhân viên phục vụ khách hàng ngân hàng (bank teller); hay (b) một bank teller đấu tranh cho nữ quyền (feminist). Phần lớn (85%) người tham gia nghiên cứu chọn câu trả lời (b) khả năng cao nhất. Nhưng câu trả lời đó vi phạm quy luật xác suất! Kahneman Tversky gọi sai lầm này nghịch liên hợp (Conjunction fallacy).
Trong một thí nghiệm khác, Kahneman Tversky tiến hành với một nhóm bác kinh nghiệm trên 15 năm về một vấn đề rất đơn giản như sau. Trong một cộng đồng 1% nữ bị bệnh ung thư. Các nhà khoa học một phương pháp xét nghiệm rất chính xác để phát hiện ung thư. Với phương pháp này đối với những người mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả dương tính 95%; đối với những người không mắc bệnh, xét nghiệm sẽ cho ra kết quả âm tính 80%. Nếu một phụ nữ trong cộng đồng đó đi xét nghiệm kết quả dương tính, khả năng người phụ nữ đó mắc bệnh ung thư bao nhiêu? Đại đa số các bác cho rằng khả năng mắc bệnh 90%. Nhưng câu trả lời đó sai. Sai bác (hay chúng ta nói chung) lẫn lộn giữa xác suất mắc bệnh nếu kết quả dương tính với xác suất kết quả dương tính nếu nhân mắc bệnh. Kahneman gọi đây nghịch tỷ suất nền, hệ quả nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán sai, bác dùng chế suy nghĩ nhanh.
Trong một thí nghiệm nổi tiếng, Kahneman Tversky cho các đối tượng chọn một trong hai bao thư. Bao thư thứ nhất chắc chắn 200 đô-la; bao thư thứ hai đòi hỏi đối tượng phải tung một đồng xu, nếu mặt sấp xuất hiện thì được 400 đô-la, mặt ngửa thì không đồng nào. Kết quả cho thấy phần lớn đối tượng tham gia nghiên cứu lựa chọn bao thư thứ nhất (dù hai lựa chọn này thật ra giá trị kỳ vọng y chang nhau)! Kết quả này cho thấy chúng ta thích sự chắc chắn. Xu hướng này dẫn Kahneman Tversky phát triển thuyết viễn cảnh, một công trình được trao giải Nobel Kinh tế năm 2002.
Một thí nghiệm cực kỳ độc đáo cho thấy chúng ta rất dễ bị chi phối bởi con số lớn. Đối tượng nghiên cứu được đưa cho 2 lựa chọn: (a) với phẫu thuật A, 90% sống sót; (b) với phẫu thuật B, 10% tử vong. Phần lớn đối tượng chọn phẫu thuật A. Một thí nghiệm tương tự, theo đó một nhóm đối tượng được cho biết rằng xác suất họ mắc bệnh 1 trên 10, một nhóm khác được cho biết xác suất mắc bệnh 100 trên 1000. Kết quả cho thấy nhóm thứ hai xu hướng chấp nhận điều trị hơn nhóm thứ nhất, nguy mắc bệnh của hai nhóm y chang nhau! Kahneman Tversky gọi đó hiệu ứng khung (framing effect).
Chúng ta thường đánh giá vấn đề qua việc tham khảo kinh nghiệm nổi bật vào thời điểm gần nhất, chứ không phải xem xét đến toàn bộ quá trình theo thời gian. Viết đến đây tôi chợt nhớ đến một nhận xét của Nhạc Đức Huy rằng người ca thể bắt đầu bài hát không đạt, nhưng khi đoạn cuối bài hát được diễn tả thành công thì khán giả sẽ xem đó một trình diễn thành công. Kahneman xem đây điểm chúng ta rất giống… chuột.
Nếu một nhà khoa học rất giỏi về một lĩnh vực nào đó (như được trao giải Nobel y học), người ta thường giả định rằng nhà khoa học đó cũng am hiểu tất cả những vấn đề khác, bản thân nhà khoa học không nghĩ vậy. Điều này giải thích tại sao khi cần tranh thủ vận động một vấn đề hội nào đó, người ta thường tìm đến những ngôi sao điện ảnh, khoa học, thể thao,... Kahneman gọi đó hiệu ứng hào quang (halo effect) cũng một chế suy nghĩ theo hệ thống 1.
 

saving score / loading statistics ...