Text Practice Mode
0
Rating visible after 3 or more votes
00:00
Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới. Tuy có cuộc đời nhiều bi thương nhưng qua hồn thơ phong phú, mới lạ và đầy bí ẩn; người đọc vẫn cảm nhận được một tình yêu nồng nhiệt hướng về cuộc đời trần thế của ông.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của một mối tình thầm kín, là lời yêu thương với một miền quê và là niềm khao khát được sống trong sự chia sẻ, đồng cảm của cuộc đời.
Trong đó, đoạn thơ mở đầu thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết và xúc đông những tâm tình ấy: “trích thơ”.
1) Chuyển ý: Đây thôn Vĩ Dạ được nhà thơ viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên Hàn Mặc Tủ luôn mang trong mình nỗi khát khao được sẻ chia, đồng cảm và muốn trở về với cuộc đời bình thường. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng sáng tác để bài thơ được ra đời. Không chỉ vậy, bài thơ còn là tấm lòng yêu da diết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người xứ Huế.
2) Phân tích:
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Câu hỏi vừa như một lời chào thân mật, vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Câu hỏi không thô lỗ mà hết sức ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả, ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể về thăm được mà cũng có thể mãi sau này không trở về được.
Qua ba câu thơ sau, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong tưởng tượng của nhà thơ hiện ra, bức tranh vừa có cây cối cảnh vật, vừa có hình ảnh con người rất đỗi bình dị, quen thuộc:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
….
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng cả một không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Nó không phải là nắng ban mai theo cách gọi xưa mà là nắng mới lên khi về với Vĩ Dạ. Nắng hàng cau đẹp, cau là hàng cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày mới, vì thế nắng hàng cau là nắng thanh tân, tinh khiết. Điệp từ nắng không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống và mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau cao vun vút đã quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ.
Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất kì vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây thiên nhiên. Vườn ai? Phải chăng là vườn nhà em? Cảnh cũ người xưa nhưng vì quá lâu chưa về nên nhà thơ mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Biện pháp tu từ so sánh xanh như ngọc và tính từ mướt cho người đọc thấy được thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ vườn ai mướt quá như tiếng reo của nhà thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi đứng trước vẻ đẹp đầy bất ngờ của khu vườn. Tất cả đều rạo rực, nhựa sống tràn trề đang chảy trong hoa lá cây cối. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy hay chỉ vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế?
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nhắc đến người con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. Mặt chữ điền chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng; lá trúc che ngang là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của người thiếu nữ. Nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng cùng dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ, thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ vườn ai và vườn cô gái đứng là một. Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
3) Khái quát, bình luận:
Bằng âm điệu thiết tha, ngọt ngào, sâu lắng, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thôn Vĩ Dạ cho người đọc cảm nhận được khổ một của bài thơ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy một tình yêu to lớn của Hàn Mặc Tử đối với mảnh đất yên bình và trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi dây của nhà thơ. Ông vấn vương, trăn trở, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm. Cho nên khổ thơ thứ nhất của Đây thôn Vĩ Dạ là khổ trong sáng nhất, đẹp nhất về cảnh thôn Vĩ và xúc động nhất của thi nhân về hi vọng hạnh phúc. Đó chính là tiếng nói bâng khuâng, rạo rực của một tâm hồn yêu và khao khát được sống.
KB: Khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh có cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, nên thơ trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể nhìn thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết cùng với nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ. Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc và con người cảnh vật nơi đây. Từ đó nhà thơ muốn gửi gắm thông điệp: Hãy biết giữ gìn, trân trọng và yêu quý những thứ xung quanh mình.
Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác nổi tiếng của Hàn Mặc Tử đã để lại nhiều dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Đó là bài thơ về tiếng nói trăn trở của một mối tình thầm kín, là lời yêu thương với một miền quê và là niềm khao khát được sống trong sự chia sẻ, đồng cảm của cuộc đời.
Trong đó, đoạn thơ mở đầu thi phẩm đã thể hiện một cách thật tha thiết và xúc đông những tâm tình ấy: “trích thơ”.
1) Chuyển ý: Đây thôn Vĩ Dạ được nhà thơ viết khi đang mắc bệnh nan y – bệnh phong, căn bệnh khiến nhiều người xa lánh, hắt hủi ông nên Hàn Mặc Tủ luôn mang trong mình nỗi khát khao được sẻ chia, đồng cảm và muốn trở về với cuộc đời bình thường. Nằm trong bệnh viện và nhận được tấm bưu thiếp của người con gái ông thầm thương trộm nhớ, Hàn Mặc Tử lấy đó làm cảm hứng sáng tác để bài thơ được ra đời. Không chỉ vậy, bài thơ còn là tấm lòng yêu da diết của nhà thơ đối với thiên nhiên, cuộc sống và con người xứ Huế.
2) Phân tích:
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng câu hỏi tu từ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Câu hỏi vừa như một lời chào thân mật, vừa như lời trách móc nhẹ nhàng của cô gái thôn Vĩ. Câu hỏi không thô lỗ mà hết sức ân cần, tế nhị. Vì thôn Vĩ có em, vì thôn Vĩ là quê hương anh, là nơi thân thiết của anh. Tuy nhiên, có thể hiểu đây là lời tự nhủ, tự trách của tác giả, ông tự hỏi bản thân sao bấy lâu nay không về thăm lại vùng đất ấy. Ông khao khát được về thăm quê hương, nỗi nhớ thương mảnh đất ấy cứ đau đáu mãi. Ngặt nỗi, lúc ấy Hàn Mặc Tử đang bị bệnh, làm sao có thể về thăm được mà cũng có thể mãi sau này không trở về được.
Qua ba câu thơ sau, bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ trong tưởng tượng của nhà thơ hiện ra, bức tranh vừa có cây cối cảnh vật, vừa có hình ảnh con người rất đỗi bình dị, quen thuộc:
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
….
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nắng mới lên là nắng sớm buổi bình minh. Ánh sáng tinh khôi, rực rỡ ấy làm sáng bừng cả một không gian rộng lớn, khoáng đạt của xứ Huế. Nó không phải là nắng ban mai theo cách gọi xưa mà là nắng mới lên khi về với Vĩ Dạ. Nắng hàng cau đẹp, cau là hàng cây cao nhất trong vườn nên sớm đón được những tia nắng đầu tiên của một ngày mới, vì thế nắng hàng cau là nắng thanh tân, tinh khiết. Điệp từ nắng không chỉ thể hiện sự tràn ngập ánh sáng, sức sống mà còn bộc lộ tâm hồn luôn hướng về ánh sáng, hướng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đã vẽ nên một hàng cau đầy sức sống và mãnh liệt đang vươn lên đón lấy những tia sáng đầu tiên của buổi sớm. Nhớ đến Vĩ Dạ, nhà thơ nhớ đến hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hình ảnh hàng cau cao vun vút đã quá đỗi quen thuộc đối với người dân thôn Vĩ.
Nhịp thơ 1/3/3 như bước chân khoan thai của bất kì vị khách nào, trầm ngâm nhìn nắng mới lên trên những hàng cau xanh biếc rạng ngời:
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Câu thơ như lời khen ngợi, trầm trồ, ngạc nhiên thốt lên trước vẻ đẹp thanh tao, mơn mởn của cỏ cây thiên nhiên. Vườn ai? Phải chăng là vườn nhà em? Cảnh cũ người xưa nhưng vì quá lâu chưa về nên nhà thơ mới thốt lên ngỡ ngàng như vậy. Biện pháp tu từ so sánh xanh như ngọc và tính từ mướt cho người đọc thấy được thôn Vĩ không chỉ xinh đẹp mà còn rất trù phú. Câu hỏi tu từ vườn ai mướt quá như tiếng reo của nhà thơ, một tiếng reo trong sung sướng, một lời trầm trồ khen ngợi buột ra tự nhiên khi đứng trước vẻ đẹp đầy bất ngờ của khu vườn. Tất cả đều rạo rực, nhựa sống tràn trề đang chảy trong hoa lá cây cối. Chỉ có vườn xuân mới xanh mướt, phì nhiêu đến vậy hay chỉ vườn nhà em mới đẹp đẽ, hữu hình đến thế?
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”
Nhắc đến người con gái Huế, người ta nghĩ ngay đến hình ảnh cô gái duyên dáng, thướt tha trong tà áo dài tím mộng mơ cùng chiếc nón lá trắng, dịu dàng, yểu điệu mà tinh tế. Mặt chữ điền chỉ tướng mạo phúc hậu, dịu dàng; lá trúc che ngang là một nét vẽ tài tình, gợi lên hình ảnh gương mặt thấp thoáng của người thiếu nữ. Nét vẽ ấy đã miêu tả vẻ đẹp thanh tao, dịu dàng cùng dáng vẻ e lệ, ẩn sau lá trúc của người con gái. Và chính hình ảnh cô gái e lệ, thấp thoáng sau những lá trúc càng chứng tỏ vườn ai và vườn cô gái đứng là một. Thiên nhiên và con người dưới ngòi bút đầy sắc sảo của Hàn Mặc Tử đã kết hợp hài hòa với nhau tạo nên một bức tranh phong cảnh tươi đẹp, đầy sức sống và có sức hút lạ lùng.
3) Khái quát, bình luận:
Bằng âm điệu thiết tha, ngọt ngào, sâu lắng, nhà thơ đã vẽ nên bức tranh thôn Vĩ Dạ cho người đọc cảm nhận được khổ một của bài thơ thật mơ mộng, bình dị. Qua đó cho thấy một tình yêu to lớn của Hàn Mặc Tử đối với mảnh đất yên bình và trù phú này. Tuy nhiên, ẩn sau ý thơ là nỗi niềm luyến tiếc, vấn vương về người và cảnh nơi dây của nhà thơ. Ông vấn vương, trăn trở, thương nhớ về cảnh sắc tươi đẹp của thôn Vĩ. Nhưng tất cả đối với nhà thơ thời điểm ấy chỉ còn là hoài niệm. Cho nên khổ thơ thứ nhất của Đây thôn Vĩ Dạ là khổ trong sáng nhất, đẹp nhất về cảnh thôn Vĩ và xúc động nhất của thi nhân về hi vọng hạnh phúc. Đó chính là tiếng nói bâng khuâng, rạo rực của một tâm hồn yêu và khao khát được sống.
KB: Khổ 1 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là bức tranh có cảnh và người xứ Huế vừa trần thế vừa trong sáng, nên thơ trong tâm trí Hàn Mặc Tử. Qua đó có thể nhìn thấy ở Hàn Mặc Tử một tình yêu quê, yêu người tha thiết cùng với nỗi nhớ mong của thi sĩ hướng về cảnh và người thôn Vĩ. Đọc bài thơ mà khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên sâu sắc và con người cảnh vật nơi đây. Từ đó nhà thơ muốn gửi gắm thông điệp: Hãy biết giữ gìn, trân trọng và yêu quý những thứ xung quanh mình.
saving score / loading statistics ...