Text Practice Mode
Văn hóa doanh nhân Việt Nam
created Jul 16th 2021, 05:52 by TuanAnh7
1
347 words
21 completed
4
Rating visible after 3 or more votes
00:00
Việt Nam là một nền văn hóa nông nghiệp lúa nước mạnh về văn hóa làng xã và rất giỏi về tổ chức làng xã, nhưng lại kém về quản lý xã hội ở quy mô lớn, càng ít quan tâm đến quản lý kinh tế, cho nên trong những từ điển đầu thế kỷ (như Hán - Việt từ điển của Đào Duy Anh, Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của) đều chưa có từ "kinh doanh". Kinh doanh bao gồm ba lĩnh vực là sản xuất hàng hóa, buôn bán và dịch vụ, cả ba đều có chung mục đích cơ bản là kiếm lời.
Sở dĩ có việc đồng nhất kinh doanh với bộ phận thương nghiệp buôn bán của nó là vì ba lý do.
Thứ nhất, buôn bán chính là hình thức kinh doanh kiếm lới xuất hiện sớm nhất (như người Do Thái ở Tây Nam Á, người nhà Thương ở Đông Bắc Á). Việc kinh doanh kiếm lời bằng sản xuất hàng hóa chỉ thực sự nở rộ và phát đạt cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Còn kinh doanh dịch vụ thì xuất hiện còn muộn hơn nữa, trong nửa sau thế kỷ XX.
Thứ hai, về từ ngữ, bên cạnh chữ doanh là “quản lý" còn có chữ doanh với nghĩa là "tiền lời” (như trong "doanh lợi"). Các sách như Từ điển yếu tố Hán - Việt thông dụng của Viện Ngôn ngữ học [1991], Từ điển từ và ngữ Hán - Việt của Nguyễn Lân… đều nhận lầm rằng doanh "kinh doanh", "doanh nghiệp", "doanh nhân" chính là doanh với nghĩa "tiền lời".
Và thứ ba, từ doanh nhân tương ứng với các từ tiếng Anh entrepreneur, businessman, mà hai từ này đều có nghĩa là thương nhân, thương gia, chủ hãng buôn. Mặc dù thương nghiệp là bộ phận điển hình nhất nhưng phải thừa nhận rằng kinh doanh là khái niệm rộng hơn, nó bao gồm cả sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Sở dĩ có việc đồng nhất kinh doanh với bộ phận thương nghiệp buôn bán của nó là vì ba lý do.
Thứ nhất, buôn bán chính là hình thức kinh doanh kiếm lới xuất hiện sớm nhất (như người Do Thái ở Tây Nam Á, người nhà Thương ở Đông Bắc Á). Việc kinh doanh kiếm lời bằng sản xuất hàng hóa chỉ thực sự nở rộ và phát đạt cùng với sự ra đời của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây. Còn kinh doanh dịch vụ thì xuất hiện còn muộn hơn nữa, trong nửa sau thế kỷ XX.
Thứ hai, về từ ngữ, bên cạnh chữ doanh là “quản lý" còn có chữ doanh với nghĩa là "tiền lời” (như trong "doanh lợi"). Các sách như Từ điển yếu tố Hán - Việt thông dụng của Viện Ngôn ngữ học [1991], Từ điển từ và ngữ Hán - Việt của Nguyễn Lân… đều nhận lầm rằng doanh "kinh doanh", "doanh nghiệp", "doanh nhân" chính là doanh với nghĩa "tiền lời".
Và thứ ba, từ doanh nhân tương ứng với các từ tiếng Anh entrepreneur, businessman, mà hai từ này đều có nghĩa là thương nhân, thương gia, chủ hãng buôn. Mặc dù thương nghiệp là bộ phận điển hình nhất nhưng phải thừa nhận rằng kinh doanh là khái niệm rộng hơn, nó bao gồm cả sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
saving score / loading statistics ...