Text Practice Mode
Những hiểu nhầm về luật Nhân Quả không phải ai cũng biết
created Nov 19th 2020, 03:44 by TunNguyn15
1
1915 words
0 completed
0
Rating visible after 3 or more votes
1. Không phải là luật theo Đạo Phật
Một trong những hiểu nhầm về luật nhân quả của không ít người đó là tin rằng đây là Luật do Phật giáo đề ra. Thế nhưng, sự thật là luật Nhân - Quả là luật chung của cả vũ trụ, nghĩa là Luật này dùng cho loài người toàn vũ trụ, ở tất cả các hành tinh, chứ không phải chỉ có ở Trái đất.
Người vi phạm Luật vũ trụ sẽ bị Luật Nhân - Quả phạt tự nhiên, không có ai xét xử. Nghĩa là cứ có công thì được hưởng Phúc, có tội thì phải đền tội, diễn tiến một cách tự nhiên.
Thuyết Nghiệp của Phật giáo được hình thành trên cơ sở tuệ giác của Đức Phật, tức là Ngài không phải là người nghĩ ra nhưng lại hiểu sâu về Nhân Quả nhờ vào trí tuệ giác ngộ của bản thân để thấy rõ nguyên lý của vũ trụ vạn hữu, chân tướng của sự vật hiện tượng, con đường vận hành của các pháp, bản chất của đời sống.
Từ đó Ngài lý giải những nghi vấn, thắc mắc mà con người chưa tìm ra lời giải đáp. Đức Phật mong muốn loài người biết được điều này để tránh những hậu quả đáng tiếc do sự thiếu hiểu biết gây ra.
Như vậy luật nhân quả là quy luật vận hành tự nhiên của vạn hữu vũ trụ. Không ai đặt định bày ra luật này và Ðức Phật cũng chỉ là người giác ngộ khám phá ra luật nhân quả mà thôi.
Do đó, luật nhân quả được giáo lý của đạo Phật hoàn chỉnh và luôn luôn được đề cập trong tam tạng kinh điển, cho nên luật nhân quả trở thành lý thuyết căn bản, là chánh kiến quan trọng trong Phật giáo.
Luật nhân quả là một chân lý hiển nhiên, luôn luôn đúng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai, không lệ thuộc thời gian và không gian, áp dụng cho tất cả mọi sự sự vật vật.
hieu nham ve luat nhan qua
2. Ai hiểu luật Nhân Quả cũng có được cuộc sống hạnh phúc
Những người hiểu Nhân - Quả và khéo biết ứng dụng vào trong đời sống, thì họ sẽ có được lợi lạc rất lớn. Thế nhưng có phải cứ ai hiểu ra rồi sẽ có cuộc sống hạnh phúc?
Thực tế là giữa lý thuyết và thật hành khó mà có thể luôn đồng nhất vì nói thì rất dễ nhưng làm thì rất khó. Vì thế, nên sách Nho có câu: “Thuyết dị, hành nan” hay “năng thuyết bất năng hành”.
Lý thuyết bao giờ cũng đi xa hơn hành động, do đó, những ai càng hiểu biết thì họ thường ít nói và chỉ nói những gì trong phạm vi khả năng mà các Ngài có thể thật hành được thôi.
Hiểu biết tuy cũng rất cần thiết, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích cho phần sở tri kiến giải của mình thôi. Cũng như người có đôi mắt thật sáng, nhìn xa thấy rộng, họ có thể nói đông nói tây đủ thứ chuyện trên đời, nhưng nhìn lại, thì họ vẫn còn dậm chân tại chỗ. Dù rằng họ có đôi chân rất mạnh.
Có người ít khi áp dụng chớ không phải hoàn toàn là họ không có áp dụng. Nghĩa là họ có áp dụng từ từ, đó gọi là họ đang hướng đời mình trên bước đường tu tập. Như thế, kể ra họ cũng vẫn còn tốt hơn là những người mà cả đời chưa bao giờ học hỏi biết đến nhân quả và họ cũng không bao giờ áp dụng một chút nào theo lý nhân quả trong cuộc sống.
Do đó, nên suốt đời họ gặp phải nhiều tai nạn khổ đau. Có tránh nhân xấu thì mới không gặp quả xấu. Ở đời, nếu mình đòi hỏi phải thật hành một cách toàn vẹn, điều đó, thật khó có ai làm được, ngoại trừ các bậc Thánh nhân.
3. Luật Nhân Quả tuân theo thuyết định mệnh
Một trong những hiểu nhầm về luật nhân quả khá cơ bản đó là ta tin rằng không thể thay đổi được nữa rồi, chúng ta phải chấp nhận số phận thôi.
Thế nhưng luật Nhân Quả không hoàn toàn là thuyết định mệnh. Nếu chấp nhận thuyết định mệnh thì không thể nào chúng ta đoạn tận được khổ đau.
Hậu quả của nghiệp có thể giảm nhẹ đi không chỉ giới hạn ở đời này mà còn vượt ra khỏi đời này nữa vì theo Phật giáo, cuộc sống không chỉ giới hạn ở sự tồn tại cá nhân và riêng lẻ. Kiếp sống hiện tại chỉ là một phần của vòng luân hồi (samsara) kéo dài qua không gian và thời gian.
Một sự hiện hữu nào đó đều luôn được một chuỗi các yếu tố lần lượt quy định và đến phiên nó, trở lại làm điều kiện để tạo nên nhiều sự kiện diễn ra sau đó nữa. Sự tồn tại, trong cùng một thời điểm, vừa là quả của một nhân đã tạo và là nhân đưa đến một quả khác.
Chúng sanh bị giam cầm trong vòng luân hồi của sự hiện hữu là kết quả từ chính hành động (nghiệp) của mình, hoặc tốt hoặc xấu. Do nghiệp quy định, hình thức tồn tại của chúng ta trong hiện tại có thể thay đổi hoặc biến mất cũng do nghiệp.
quy luat hoat dong cua nhan qua
PlayvolumeTruvid00:15Ad
Điều này có thể xảy ra vì hiện tại không phải hoàn toàn là kết quả của nhân trong quá khứ. Hiện tại là nhân đồng thời cũng là quả.
Tuy nhiên, bản chất của Nghiệp là duyên sinh vô ngã, là bất định, có thể chuyển hóa. Đức Phật có dạy trong kinh Tăng nhứt A-hàm: “Nếu ai cho rằng, con người phải gặt hái trọn hậu quả của tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và con người cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền não. Nhưng nếu hiểu rằng, quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời sống đạo đức và con người có cơ hội dập tắt phiền não”.
Nếu nghĩ rằng: Do nghiệp mà một người không thông minh nên người đó phải chấp nhận, không cần phải học tập, trau giồi trí tuệ. Do nghiệp mà một người phải sống trong cảnh nghèo hèn khốn khó, người đó phải cam chịu, dù cố gắng phấn đấu cũng không ích gì… Đó đều là những quan niệm tiêu cực, là nhận thức sai lầm về Nghiệp
Nếu nghĩ những gì đang thọ nhận trong hiện tại đều là kết quả của nghiệp quá khứ, nghĩ như thế là hiểu chưa đúng về Nghiệp. Như Đức Phật đã dạy, con người là chủ nhân của Nghiệp.
Trong hiện tại, con người có thể tạo những nghiệp mang lại an lạc, hạnh phúc cho mình cho dù mình đang sống trong hoàn cảnh nào, đang phải nhận chịu quả báo của những nghiệp trong quá khứ đời này hay đời trước. Con người có thể tạo ra những nghiệp mới theo chiều hướng tích cực để khắc phục hậu quả của những nghiệp đã tạo trong quá khứ.
Con người có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện tại và hoàn toàn đạt được an lạc hạnh phúc, giải thoát khỏi phiền não khổ đau ngay trong hiện tại.
Ở một bài kinh, khi có người hỏi: “Do nguyên nhân nào mà trên cõi thế gian có người yểu mạng, có người thọ mạng; có người bệnh hoạn, có người khỏe mạnh; có người xấu xí, có người đẹp đẽ.
Do nguyên nhân nào có người nghèo khổ, có người giàu sang; có người sinh ra trong gia đình bần tiện, có người sinh ra trong dòng dõi cao sang; có người ngu mê tăm tối, có người thông minh tài trí...”.
Đức Phật đã trả lời: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa.
Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi chúng sinh mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh” (Trung A-hàm, kinh Anh vũ, 170; Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt, 135).
chung ta song trong neo luan hoi khong tranh nghiep qua
4. Chỉ hiểu đường đi của Nhân - Quả nhãn tiền
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp.
Theo luật Nhân Quả, nghiệp nhân sẽ dẫn đến nghiệp quả, nhưng thời gian đưa đến nghiệp quả (mau hay chậm, trong hiện tại hay tương lai, đời này hay đời khác) và mức độ, tính chất của nghiệp quả như thế nào (nặng hay nhẹ và giống nghiệp nhân nhiều hay ít) còn tuỳ thuộc vào năng lực nghiệp nhân mạnh hay yếu và nhiều điều kiện nhân duyên khác nữa.
Thường thường, chúng ta thấy gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một cách nhãn tiền. Luật nhân quả giải thích được các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có những nguyên nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được trong hiện tại.
Người hiền lành đang gieo nhân lành trong hiện tại, kết quả tốt chưa kịp đến thì hiện nay phải đền trả quả báo xấu do nghiệp nhân xấu đã gây tạo trong quá khứ.
Người ta không nhớ hết những nghiệp nhân mà mình đã tạo trong quá khứ đời này và càng không biết những đời trước mình đã tạo những nghiệp nhân gì. Nhân quả - Nghiệp báo trong ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) không ai tường tận được.
Đức Phật đã từng nói điều này trong kinh Tăng chi bộ: “Có bốn phạm trù không thể tư duy, đó là Phật giới, thế giới tâm, thiền định của người tu thiền định và quả dị thục của Nghiệp”. Chỉ có bậc Thánh giác ngộ (Phật, Bồ-tát, A-la-hán…) mới có thể tường tận đường đi phức tạp của Nhân quả - Nghiệp báo.
Cuộc đời Đức Phật, các vị Thánh đệ tử, chư Tổ, các vị thiền sư… đã chứng minh điều này. Ngay cả những người tu tập Phật pháp, dù chưa đạt đến cảnh giới giác ngộ giải thoát cũng có được an lạc hạnh phúc khi biết chuyển nghiệp.
Và không chỉ người tu hành, những ai có quyết tâm cải thiện bản thân, thay đổi tư duy, hành động, lối sống của mình theo chiều hướng tích cực cũng đều có được an vui, hạnh phúc ngay trong hiện tại.
Tội hay phúc từ tiền kiếp, kiếp nầy không hẳn trả quả hay hưởng phước một cách máy móc mà còn tùy điều kiện sinh hoạt xem họ có tạo thêm tội hay gia tăng làm phước.
00:00
1. Không phải là luật theo Đạo Phật
Một trong những hiểu nhầm về luật nhân quả của không ít người đó là tin rằng đây là Luật do Phật giáo đề ra. Thế nhưng, sự thật là luật Nhân - Quả là luật chung của cả vũ trụ, nghĩa là Luật này dùng cho loài người toàn vũ trụ, ở tất cả các hành tinh, chứ không phải chỉ có ở Trái đất.
Người vi phạm Luật vũ trụ sẽ bị Luật Nhân - Quả phạt tự nhiên, không có ai xét xử. Nghĩa là cứ có công thì được hưởng Phúc, có tội thì phải đền tội, diễn tiến một cách tự nhiên.
Thuyết Nghiệp của Phật giáo được hình thành trên cơ sở tuệ giác của Đức Phật, tức là Ngài không phải là người nghĩ ra nhưng lại hiểu sâu về Nhân Quả nhờ vào trí tuệ giác ngộ của bản thân để thấy rõ nguyên lý của vũ trụ vạn hữu, chân tướng của sự vật hiện tượng, con đường vận hành của các pháp, bản chất của đời sống.
Từ đó Ngài lý giải những nghi vấn, thắc mắc mà con người chưa tìm ra lời giải đáp. Đức Phật mong muốn loài người biết được điều này để tránh những hậu quả đáng tiếc do sự thiếu hiểu biết gây ra.
Như vậy luật nhân quả là quy luật vận hành tự nhiên của vạn hữu vũ trụ. Không ai đặt định bày ra luật này và Ðức Phật cũng chỉ là người giác ngộ khám phá ra luật nhân quả mà thôi.
Do đó, luật nhân quả được giáo lý của đạo Phật hoàn chỉnh và luôn luôn được đề cập trong tam tạng kinh điển, cho nên luật nhân quả trở thành lý thuyết căn bản, là chánh kiến quan trọng trong Phật giáo.
Luật nhân quả là một chân lý hiển nhiên, luôn luôn đúng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai, không lệ thuộc thời gian và không gian, áp dụng cho tất cả mọi sự sự vật vật.
hieu nham ve luat nhan qua
2. Ai hiểu luật Nhân Quả cũng có được cuộc sống hạnh phúc
Những người hiểu Nhân - Quả và khéo biết ứng dụng vào trong đời sống, thì họ sẽ có được lợi lạc rất lớn. Thế nhưng có phải cứ ai hiểu ra rồi sẽ có cuộc sống hạnh phúc?
Thực tế là giữa lý thuyết và thật hành khó mà có thể luôn đồng nhất vì nói thì rất dễ nhưng làm thì rất khó. Vì thế, nên sách Nho có câu: “Thuyết dị, hành nan” hay “năng thuyết bất năng hành”.
Lý thuyết bao giờ cũng đi xa hơn hành động, do đó, những ai càng hiểu biết thì họ thường ít nói và chỉ nói những gì trong phạm vi khả năng mà các Ngài có thể thật hành được thôi.
Hiểu biết tuy cũng rất cần thiết, nhưng nó chỉ đem lại lợi ích cho phần sở tri kiến giải của mình thôi. Cũng như người có đôi mắt thật sáng, nhìn xa thấy rộng, họ có thể nói đông nói tây đủ thứ chuyện trên đời, nhưng nhìn lại, thì họ vẫn còn dậm chân tại chỗ. Dù rằng họ có đôi chân rất mạnh.
Có người ít khi áp dụng chớ không phải hoàn toàn là họ không có áp dụng. Nghĩa là họ có áp dụng từ từ, đó gọi là họ đang hướng đời mình trên bước đường tu tập. Như thế, kể ra họ cũng vẫn còn tốt hơn là những người mà cả đời chưa bao giờ học hỏi biết đến nhân quả và họ cũng không bao giờ áp dụng một chút nào theo lý nhân quả trong cuộc sống.
Do đó, nên suốt đời họ gặp phải nhiều tai nạn khổ đau. Có tránh nhân xấu thì mới không gặp quả xấu. Ở đời, nếu mình đòi hỏi phải thật hành một cách toàn vẹn, điều đó, thật khó có ai làm được, ngoại trừ các bậc Thánh nhân.
3. Luật Nhân Quả tuân theo thuyết định mệnh
Một trong những hiểu nhầm về luật nhân quả khá cơ bản đó là ta tin rằng không thể thay đổi được nữa rồi, chúng ta phải chấp nhận số phận thôi.
Thế nhưng luật Nhân Quả không hoàn toàn là thuyết định mệnh. Nếu chấp nhận thuyết định mệnh thì không thể nào chúng ta đoạn tận được khổ đau.
Hậu quả của nghiệp có thể giảm nhẹ đi không chỉ giới hạn ở đời này mà còn vượt ra khỏi đời này nữa vì theo Phật giáo, cuộc sống không chỉ giới hạn ở sự tồn tại cá nhân và riêng lẻ. Kiếp sống hiện tại chỉ là một phần của vòng luân hồi (samsara) kéo dài qua không gian và thời gian.
Một sự hiện hữu nào đó đều luôn được một chuỗi các yếu tố lần lượt quy định và đến phiên nó, trở lại làm điều kiện để tạo nên nhiều sự kiện diễn ra sau đó nữa. Sự tồn tại, trong cùng một thời điểm, vừa là quả của một nhân đã tạo và là nhân đưa đến một quả khác.
Chúng sanh bị giam cầm trong vòng luân hồi của sự hiện hữu là kết quả từ chính hành động (nghiệp) của mình, hoặc tốt hoặc xấu. Do nghiệp quy định, hình thức tồn tại của chúng ta trong hiện tại có thể thay đổi hoặc biến mất cũng do nghiệp.
quy luat hoat dong cua nhan qua
PlayvolumeTruvid00:15Ad
Điều này có thể xảy ra vì hiện tại không phải hoàn toàn là kết quả của nhân trong quá khứ. Hiện tại là nhân đồng thời cũng là quả.
Tuy nhiên, bản chất của Nghiệp là duyên sinh vô ngã, là bất định, có thể chuyển hóa. Đức Phật có dạy trong kinh Tăng nhứt A-hàm: “Nếu ai cho rằng, con người phải gặt hái trọn hậu quả của tất cả những hành động trong quá khứ thì không thể có đời sống đạo đức, và con người cũng không thể có cơ hội tận diệt phiền não. Nhưng nếu hiểu rằng, quả phải gặt tương xứng với nhân đã gieo thì ắt có đời sống đạo đức và con người có cơ hội dập tắt phiền não”.
Nếu nghĩ rằng: Do nghiệp mà một người không thông minh nên người đó phải chấp nhận, không cần phải học tập, trau giồi trí tuệ. Do nghiệp mà một người phải sống trong cảnh nghèo hèn khốn khó, người đó phải cam chịu, dù cố gắng phấn đấu cũng không ích gì… Đó đều là những quan niệm tiêu cực, là nhận thức sai lầm về Nghiệp
Nếu nghĩ những gì đang thọ nhận trong hiện tại đều là kết quả của nghiệp quá khứ, nghĩ như thế là hiểu chưa đúng về Nghiệp. Như Đức Phật đã dạy, con người là chủ nhân của Nghiệp.
Trong hiện tại, con người có thể tạo những nghiệp mang lại an lạc, hạnh phúc cho mình cho dù mình đang sống trong hoàn cảnh nào, đang phải nhận chịu quả báo của những nghiệp trong quá khứ đời này hay đời trước. Con người có thể tạo ra những nghiệp mới theo chiều hướng tích cực để khắc phục hậu quả của những nghiệp đã tạo trong quá khứ.
Con người có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện tại và hoàn toàn đạt được an lạc hạnh phúc, giải thoát khỏi phiền não khổ đau ngay trong hiện tại.
Ở một bài kinh, khi có người hỏi: “Do nguyên nhân nào mà trên cõi thế gian có người yểu mạng, có người thọ mạng; có người bệnh hoạn, có người khỏe mạnh; có người xấu xí, có người đẹp đẽ.
Do nguyên nhân nào có người nghèo khổ, có người giàu sang; có người sinh ra trong gia đình bần tiện, có người sinh ra trong dòng dõi cao sang; có người ngu mê tăm tối, có người thông minh tài trí...”.
Đức Phật đã trả lời: “Tất cả chúng sinh đều mang theo cái nghiệp của chính mình như một di sản, như vật di truyền, như người chí thân, như chỗ nương tựa.
Chính vì cái nghiệp riêng của mỗi chúng sinh mỗi khác nên mới có cảnh dị đồng giữa các chúng sinh” (Trung A-hàm, kinh Anh vũ, 170; Trung bộ, kinh Tiểu nghiệp phân biệt, 135).
chung ta song trong neo luan hoi khong tranh nghiep qua
4. Chỉ hiểu đường đi của Nhân - Quả nhãn tiền
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn, đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất phức tạp.
Theo luật Nhân Quả, nghiệp nhân sẽ dẫn đến nghiệp quả, nhưng thời gian đưa đến nghiệp quả (mau hay chậm, trong hiện tại hay tương lai, đời này hay đời khác) và mức độ, tính chất của nghiệp quả như thế nào (nặng hay nhẹ và giống nghiệp nhân nhiều hay ít) còn tuỳ thuộc vào năng lực nghiệp nhân mạnh hay yếu và nhiều điều kiện nhân duyên khác nữa.
Thường thường, chúng ta thấy gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một cách nhãn tiền. Luật nhân quả giải thích được các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có những nguyên nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được trong hiện tại.
Người hiền lành đang gieo nhân lành trong hiện tại, kết quả tốt chưa kịp đến thì hiện nay phải đền trả quả báo xấu do nghiệp nhân xấu đã gây tạo trong quá khứ.
Người ta không nhớ hết những nghiệp nhân mà mình đã tạo trong quá khứ đời này và càng không biết những đời trước mình đã tạo những nghiệp nhân gì. Nhân quả - Nghiệp báo trong ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) không ai tường tận được.
Đức Phật đã từng nói điều này trong kinh Tăng chi bộ: “Có bốn phạm trù không thể tư duy, đó là Phật giới, thế giới tâm, thiền định của người tu thiền định và quả dị thục của Nghiệp”. Chỉ có bậc Thánh giác ngộ (Phật, Bồ-tát, A-la-hán…) mới có thể tường tận đường đi phức tạp của Nhân quả - Nghiệp báo.
Cuộc đời Đức Phật, các vị Thánh đệ tử, chư Tổ, các vị thiền sư… đã chứng minh điều này. Ngay cả những người tu tập Phật pháp, dù chưa đạt đến cảnh giới giác ngộ giải thoát cũng có được an lạc hạnh phúc khi biết chuyển nghiệp.
Và không chỉ người tu hành, những ai có quyết tâm cải thiện bản thân, thay đổi tư duy, hành động, lối sống của mình theo chiều hướng tích cực cũng đều có được an vui, hạnh phúc ngay trong hiện tại.
Tội hay phúc từ tiền kiếp, kiếp nầy không hẳn trả quả hay hưởng phước một cách máy móc mà còn tùy điều kiện sinh hoạt xem họ có tạo thêm tội hay gia tăng làm phước.
saving score / loading statistics ...