eng
competition

Text Practice Mode

vietnam fairytail

created Oct 25th 2020, 14:48 by doanhieu743


0


Rating

2159 words
6 completed
00:00
Truyền kỳ mạn lục tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá "thiên cổ kỳ bút"  (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới.
 
Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch giới thiệu một số nước như Pháp, Nga...
***
Nhà văn Việt Nam, người Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp tưởng hành đạo, đã đi thi thể đã ra làm quan. Sau bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa Nguyễn Dữ sinh mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học Nguyễn Bỉnh Khiêm, bạn học Phùng Khắc Khoan, tức vào khoảng thế kỷ XVI để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn thơ ca, cuối mỗi truyện thường lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm ý nghĩa thể loại này nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình hội không còn ổn định như thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vậy, tuy vẻ những truyện nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ phần dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.
 
Trong Truyền kỳ mạn lục, truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, truyện thể hiện đời sống tưởng của phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật đã thể hiện quan niệm sống của kẻ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ẩn nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng sự phục hồi của chế độ phong kiến. tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của hội để cổ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tưởng nhà nho, còn thể hiện sự dao động của tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã phần bảo lưu những tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó tưởng Phật giáo, Đạo giáo chủ yếu tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong hội. Cũng chính ít nhiều không bị trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến muốn dành cho tưởng tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho trước nhu cầu lối sống mới của hội. Truyền kỳ mạn lục giá trị hiện thực phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến giá trị nhân đạo đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau niềm ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn tập truyện nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. vượt xa những truyện lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách cuộc sống riêng của nhân vật, cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu thơ ca. Lời văn đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa sinh động. Truyền kỳ mạn lục mẫu mực của thể truyền kỳ, "thiên cổ kỳ bút", "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian.
 
BÙI DUY TÂN
 
Nguyễn Dữ con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) những ghi chép của Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục thể biết ông người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc những ảnh hưởng qua lại về tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc chọn con đường ẩn ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI.
 
Theo những liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Thị Thiết Nam, đền thờ Nhị Khanh Hưng Yên đền thờ Văn Thành làng Gối, Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều lời bình thể hiện chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vét của cải, sách nhiễu
 

saving score / loading statistics ...